Bill Gates tài trợ các ý tưởng khoa học “điên rồ”

Ngày 20/10, Quỹ Bill & Melinda Gates (BMGF) của tỷ phú Bill Gates đã cam kết chi 168 triệu USD để đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học có thể giúp thay đổi thế giới. Trong số hơn 70 ý tưởng được nhận tiền tài trợ của quỹ này có những dự định nghiên cứu khiến dư luận phải sửng sốt.

Những ý tưởng khác người

Một lượng lớn các nhà khoa học trẻ có nhiều ý tưởng mới lạ trong cuộc chiến chống bệnh truyền nhiễm, nghiên cứu vắcxin... nhưng gặp khó khăn về việc tìm kiếm nguồn tài trợ đã nhận được sự hậu thuẫn của tỷ phú Bill Gates. Ngày 20/10, hơn 70 ý tưởng khoa học táo bạo đã được BMGF đồng ý cấp tiền tài trợ nghiên cứu.

Nhiều ý tưởng nghiên cứu thực sự rất táo bạo. Đơn cử như trường hợp của Udantha Abeyratne ở Trường Đại học Queensland (Australia), người đề xuất sử dụng điện thoại di động để phân tích và chẩn đoán bệnh viêm phổi. Điện thoại sẽ được trang bị phần mềm để ghi lại tiếng ho, tiếng thở, tiếp đó phân tích và đưa ra thông số chẩn đoán xem người vừa nói có bị viêm phổi hay không.

Tương tự là ý tưởng của Margaret Njoroge ở Phòng nghiên cứu Y sinh Uganda - đề xuất việc phát triển loại vắcxin chống sốt rét dành riêng cho các bà mẹ. Vắcxin này sẽ tạo ra kháng thể chống bệnh sốt rét trong sữa mẹ và được chuyển cho trẻ khi chúng bú mẹ.

Trong số các nhà khoa học trẻ có những ý tưởng kỳ lạ nhất phải kể tới Andrew Fung ở Trường Đại học California (Mỹ). Fung hy vọng sẽ sản xuất được một loại kẹo cao su có thể giúp phát hiện sớm bệnh sốt rét khi bệnh nhân... nhai kẹo. Hay như Ranjan Nanda thuộc Trung tâm Quốc tế về biến đổi gen và công nghệ sinh học ở Ấn Độ, tác giả của ý tưởng tạo ra chiếc mũi điện tử để thu thập và phân tích hơi thở người nhằm xác định bệnh lao.

Thay đổi tư duy

Mỗi dự án “điên rồ” kể trên sẽ nhận được sự tài trợ ban đầu khoảng 100.000 USD của BMFG trong khuôn khổ chương trình Grand Challenges Explorations (tạm dịch: Những khám phá mang tính thách thức lớn). Những người này sẽ có cơ hội nhận tiếp 1 triệu USD tiền tài trợ nếu dự án của họ thành công.

Trái ngược với các phương thức tài trợ thông thường, BMGF không yêu cầu ứng cử viên xin tài trợ phải có những công trình đồ sộ. Muốn được nhận tiền tài trợ, họ chỉ cần trình ra một lá đơn dài 2 trang, nêu ý tưởng nghiên cứu và không cần phải có dữ liệu ban đầu để chứng minh tính thực tiễn của ý tưởng. BMGF hy vọng lối tiếp cận này sẽ khuyến khích các ý tưởng khoa học “điên rồ” nhất, hiện vẫn chưa được ai chứng minh hoặc tiếp cận nghiên cứu.

“Trong tư duy có những lúc ta cần một cuộc cách mạng thay vì một tiến trình đi lên từ từ. Vấn đề là chúng ta bị khóa chặt vào những lối tư duy chính thống. Điều đó ngăn chúng ta suy nghĩ theo những lối tư duy mới” - tiến sĩ Tachi Yamada, Chủ tịch Chương trình Chăm sóc sức khỏe của BMGF và là thành viên Ban tuyển chọn các ý tưởng, giải thích.

Yamada cho biết ông và Bill Gates, cũng nằm trong Ban tuyển chọn, đã chấp nhận thực tế rằng 90% ý tưởng có thể thất bại. Thậm chí có cả những kẻ bốc phét chủ tâm “xài chùa” tiền tài trợ. Tuy nhiên, tỷ lệ thành công của các ý tưởng dù rất nhỏ cũng là điều đáng khích lệ.

“Chúng tôi tin rằng một sự cách tân thực sự là cần thiết. Một số ý tưởng có vẻ xa vời nhưng có ranh giới khá rõ ràng giữa sự điên rồ và những điều hoàn toàn mới mẻ” - ông nói.

Khuyến khích những người trẻ

Tháng 5 năm nay, BMGF cũng đã trao tiền cho hơn 80 dự án nghiên cứu khoa học đặc biệt, với những ý tưởng độc đáo như sản xuất cà chua chứa kháng sinh, gà chống cúm, thiết bị cầm tay phát hiện ký sinh trùng sốt rét trong máu. Đó còn là ý tưởng biến đổi muỗi cái để chúng không tìm đốt con người, sử dụng những con bò đã được tiêm chất chống sốt rét khiến khi muỗi hút máu bò thì nó sẽ bị tiêu diệt hoặc mất khả năng truyền bệnh, sử dụng laser để tăng hiệu quả của thuốc...

Điều đáng chú ý là trong đợt trao tài trợ mới, nhiều nhà khoa học trẻ đã được lựa chọn. Đây có thể xem là một biến đổi lớn về tư duy trong hoạt động nghiên cứu khoa học bởi trước kia, đối tượng nhận được tài trợ thường chỉ là các nhà nghiên cứu giàu kinh nghiệm. Yamada nói rằng giới khoa học trẻ có rất nhiều cơ hội nhận được sự ủng hộ của BMGF.

Theo Andrew Serazin, Giám đốc Chương trình sức khỏe toàn cầu thuộc BMGF, mọi ứng cử viên đều có cơ hội được nhận tài trợ. “Bất kỳ ai cũng có thể nộp đơn xin tài trợ và chúng tôi sẽ đánh giá các ý tưởng của một người từng đoạt giải Nobel ngang hàng với một học sinh trung học. Điều tuyệt vời là chúng tôi có thể tiếp cận các nhà nghiên cứu trẻ, những người thường bị loại khỏi các tiến trình xem xét tài trợ nghiên cứu” - ông nói.

Được biết đây là lần thứ 3 chương trình Grand Challenges Explorations cung cấp tài trợ cho các nhà nghiên cứu. Tới nay đã có 262 nhà nghiên cứu đại diện cho 30 nước được nhận tiền tài trợ. Vòng tài trợ lần này tập trung vào việc nghiên cứu những biện pháp rẻ tiền để phát hiện bệnh truyền nhiễm, các phương tiện phát hiện và điều trị bệnh sốt rét, vắcxin mới và những cách tăng cường hệ thống miễn nhiễm của cơ thể người.

Theo Vietnamnet

Viet Nam High IQ Society rất vui mừng chào đón thành viên mới: Trần Thế Hùng!

Chúng ta rất vui mừng được chào đón: anh Trần Thế Hùng đã trở thành thành viên mới của Viet Nam High IQ Society!
Anh Trần Thế Hùng (26 tuổi) hiện đang là nghiên cứu sinh trong lĩnh vực Toán - Tin tại trường Đại học Paris 7.


Anh Hùng hiện đang nắm giữ kỷ lục cho người có số câu trả lời đúng liên tiếp nhiều nhất với 12 câu trả lời chính xác liên tiếp!
Trong thư gửi cho chúng ta anh có chia sẻ rằng sở thích của anh là: âm nhạc, đọc sách, du lịchgiải toán.
Các bạn có thể viếng thăm không gian dành riêng của anh Hùng tại:

IQ test cho trẻ em từ 4 đến 9 tuổi - bản rút gọn

Bài Raven dành cho trẻ em, IQ quy đổi được tính toán dựa trên kết quả của 22 nghiên cứu đến từ 12 quốc gia (tất cả các số liệu đều được thu thập từ sau năm 2005), có ưu điểm là thời gian test nhanh (chỉ 15 phút), các câu hỏi trực quan nhiều màu săc hấp dẫn và đặc biệt là không yêu cầu trẻ phải biết đọc.
Chúng tôi muốn gửi lời cảm ơn đến: tiến sĩ Xavier Jouve, ông Milos Tatarevic và tiến sĩ Jonathan Wai đã giúp đỡ trong việc cung cấp các dữ liệu đáng quý trên.

Lưu ý:
1. Bài test là công bằng giữa các nền ngôn ngữ, văn hóa và không yêu cầu trẻ phải biết đọc hay đi học.
2. Bài test gồm 36 câu làm trong 15 phút. Khi bắt đầu vào câu thứ 1 thời gian sẽ tự động được tính.
3. Chắc rằng con bạn đang có tinh thần thoải mái và thể trạng khỏe khoắn.
4. Kết quả mang lại dù có tính chính xác cao đến đâu thì nó cũng không nên được coi là quá quan trọng.
5. Không nên tìm cách gợi ý, tỏ thái độ khi trẻ làm sai và chia sẻ kết quả với trẻ dù nó có là tốt hay xấu.
6. Việc tính toán đúng tuổitháng cũng như lựa chọn đúng giới tính của trẻ là rất quan trọng.
7. Chúc bé của bạn may mắn!

Bắt đầu test

Việt Nam xếp thứ 116 trong danh sách những "nước tốt nhất để sống"

Theo một phúc trình mới ra của Liên Hiệp Quốc, nước tốt nhất để sống trên thế giới là Na Uy, trong khi nơi tệ nhất là Niger.

Việt Nam đứng thứ 116 trong bảng xếp hạng chất lượng cuộc sống của các công dân tại 182 quốc gia[1].

Các tiêu chí trong chỉ số xếp hạng về Phát triển Con người (HDI[2]) của LHQ tập trung vào ba yếu tố chính là tuổi thọ trung bình, học vấn, và mức sống.

Tuy nhiên, bản Phúc trình về Phát triển Con người 2009 của LHQ lại dựa trên các dữ liệu thu thập được từ năm 2007, trước khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra.

 

 

 

So với khu vực

Việt Nam đứng sau hầu hết các nước trong khối Đông Nam Á, Asean, chỉ trên Lào (133), Campuchia (137) và Miến Điện (138).

Theo dữ liệu thu thập năm 2007, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 74.3, tỉ lệ biết đọc biết viết90.3%, và tỉ lệ GDP trên đầu người2600USD[3].

Trên Việt Nam năm bậc là Indonesia (111) rồi đến Philippines (105), Thái Lan (87), Malaysia (66) và các nước khác.

Trung Quốc xếp ở vị trí 92, được cho là có cải thiện rất nhiều do mức thu nhập cũng như tuổi thọ người dân gia tăng.

Các nước Đông Á vẫn xếp hạng cao, với Nhật ở vị trí thứ 10 và Hàn Quốc đứng thứ 26. Singapore đứng thứ 23, chỉ sau Anh Quốc hai bậc.

 

Cách biệt

Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc nói chỉ số này cho thấy sự cách biệt lớn giữa các nước giàu và các nước nghèo.

Na Uy thường xuyên đứng cao trong bảng xếp hạng của LHQ - vốn được thực hiện từ năm 1990 đến nay. Mức sống cao tại Na Uy phần lớn là nhờ việc tìm thấy dầu khí ngoài khơi nước này vào cuối thập niên 1960.

Trong khi đó, Niger là nước thường xuyên chịu hạn hán tại châu Phi, và nhiều khi phải chật vật để có thể nuôi sống các công dân của mình.

Các nước khác được xếp cao trong bảng xếp hạng là Úc (thứ hai) và Iceland (thứ ba).

Tuy nhiên, mức sống tại Iceland đã thay đổi nhiều kể từ khi dữ liệu được thu thập, vì đây là một trong những nước bị thiệt hại nặng nề nhất vì cuộc khủng hoảng tín dụng.

Trong các nước đội sổ, trên Niger một bậc là Afghanistan, và tiếp đó là Sierra Leone.

Tuổi thọ trung bình tại Niger là 50, tức là thấp hơn tuổi thọ trung bình tại Na Uy khoảng 30 năm.

Chỉ số này còn cho thấy một nửa dân số tại 24 quốc gia nghèo nhất được cho là mù chữ.

Trong khi thừa nhận chỉ số này không phải là một cách đo lường toàn diện về phát triển con người (như thiếu các tiêu chí về bất bình đẳng giới và thu nhập, tôn trọng nhân quyền, tự do chính trị..vv…), những gì HDI đưa ra là cái nhìn về những tiến bộ trong một số lĩnh vực nhất định, cũng như mối quan hệ phức tạp giữa thu nhập và phúc lợi của người dân.
 

10 nước đầu bảng 

1. Na Uy

2. Australia

3. Iceland

4. Canada

5. Ireland

6. Hà Lan

7. Thụy Điển

8. Pháp

9. Thụy Sỹ

10. Nhật Bản

                                                                                                                                                                                             Theo BBC 

 Chú thích:

[1] Danh sách đầy đủ 182 quốc gia tìm thấy ở ĐÂY.

[2] Có thể tham khỏa thêm về HDI tại ĐÂY.

[3] 2600 USD là GDP đầu người tính theo sức mua tương đương, GDP đầu người năm 2007 của Việt Nam tính theo số tuyệt đối là 833 USD.  

Viet Nam High IQ Society vui mừng chào đón thành viên mới: Đỗ Đức Thọ!

Chúng tôi rất vui mừng được chào đón: Đỗ Đức Thọ đã trở thành thành viên mới của Viet Nam High IQ Society!

Đỗ Đức Thọ (19 tuổi) đến với chúng ta từ thành phố Yên Bái - hiện đang ở tại quận Thanh Xuân - Hà Nội. 

 

 

Dưới đây là những thông tin ngắn gọn, xúc tích mà Thọ chia sẻ với chúng ta:

"Sở thích: đọc sách, kết bạn, nghe nhạc, IQ.
Câu nói thích nhất: Thực tiễn là thước đo kiểm nghiệm chân lý.

Ham học hỏi theo kiểu cực kỳ khó bảo." 

Chúng ta có thể tìm hiểu thêm về anh tại: ĐÂY

 

 

 

 

IQ tuyển dụng nhân sự - Bài trắc nghiệm tuyển dụng của Viettel

Trong thời gian qua chúng tôi nhận được hàng trăm yêu cầu và câu hỏi về trắc nghiệm IQ tuyển dụng vào các tập đoàn, công ty, cơ quan... tại Việt Nam, đặc biệt là những bài trắc nghiệm IQ tuyển dụng nhân sự cho các công ty Viễn thông, các ngân hàng và các công ty nước ngoài. 

 

 Để đáp ứng nhu cầu này, chúng tôi giới thiệu đến các bạn bài trắc nghiệm IQ tuyển dụng nhân sự vào Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel.

Kết quả sẽ được hiện thị gồm 3 phần chính:

1 - Điểm số đúng trên tổng số câu của bạn.

2 - Khả năng đỗ của bạn.

3 - Nguồn, tài liệu mà các công ty ở Việt Nam hay sử dụng để dịch rồi sắp xếp lại thành 1 bài trắc nghiệm IQ hoàn chỉnh cho mỗi đợt tuyển dụng nhân sự (chứa 100% các câu hỏi mà bài test này sử dụng).



Bắt đầu Test          

 

 

Những thành phần chủ yếu của tâm lý

Hoạt động của não người là một trong những chức năng của tâm lý. Tâm lý bao gồm những thành phần chủ yếu như: tư duy, cảm xúc và động lực thúc đẩy.


1- Tư duy

Chỉ số EQ - trí tuệ cảm xúc


Trí tuệ xúc cảm (emotional intelligence - EI) thường dùng dưới hàm nghĩa nói về chỉ số cảm xúc (emotional intelligence quotient - EQ)[1] của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả năng, năng lực, kỹ năng (trong trường hợp của mô hình tính cách về trí tuệ xúc cảm) hay khả năng tự nhận thức để xác định, đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi người, của người khác, của các nhóm cảm xúc[1]. Trí tuệ xúc cảm là nhánh nghiên cứu tương đối mới của ngành tâm lý học. Do đó, định nghĩa về trí tuệ xúc cảm không ngừng thay đổi.



[sửa]Nguồn gốc

Nguồn gốc sâu xa nhất của trí tuệ cảm xúc có thể truy ngược về việc Darwin nghiên cứu về tầm quan trọng của sự diễn đạt cảm xúc của các cá thể trong quá trình chọn lọc tự nhiên và các thay đổi thích nghi[2] Vào những năm 1900, mặc dù các định nghĩa truyền thống về trí tuệ nhấn mạnh tới yếu tố nhận thức như là trí nhớ và khả năng giải quyết vấn đề, nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng trong lĩnh vực trí nghiên cứu trí tuệ đã bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của khía cạnh "ngoài nhận thức" (non-cognitive). Ví dụ như ngay từ những năm 1920, E. L. Thorndike, đã sử dụng khái niệm "hiểu biết xã hội" để miêu tả kỹ năng hiểu và quản lý người khác.[3]

Tương tự, năm 1940 David Wechsler đã miêu tả ảnh hưởng của yếu tố không hiểu biết tới các ứng xử thông minh, và chứng tỏ xa hơn rằng các mô hình của chúng ta về sự thông minh vẫn chưa hoàn thiện cho tới khi chúng ta có thể miêu tả thích đáng các yếu tố này. Năm 1983, trong cuốn Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences (Những cơ cấu của nhận thức: Lý thuyết về thông minh bội) [4] của Howard Gardner đã giới thiệu về ý tưởng về những thông minh bội mà trong đó bao gồm "Trí tuệ giữa các cá nhân" (khả năng hiểu những ý định, động cơ và mong muốn của người khác) và "Trí tuệ trong cá nhân" (khả năng hiểu ai đó, tán đồng cảm nhận của người đó, cảm giác sợ hãi và động cơ thúc đẩy). Trong quan sát của Gardner, các kiểu trí tuệ truyền thống như IQ, không thể giải thích một cách đầy đủ khả năng nhận thức của con người.[5] Vì vậy thậm chí với những tên cho trước đến những khái niệm biến đổi, đều có một tin tưởng chung rằng những định nghĩa truyền thống về trí tuệ đang thiếu khả năng giải thích những kết quả trước đó.

Wayne Payne là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ Trí tuệ xúc cảm (TTXC) trong luận văn tiến sỹ của anh: "Nghiên cứu về xúc cảm: Phát triển trí tuệ xúc cảm" vào năm 1985.[6] Tuy nhiên, thuật ngữ gần tương tự đã xuất hiện trước đó Leuner (1966). Greenspan (1989) cũng đồng thời đề xuất mô hình TTXC này năm 1985, nối tiếp bởi Salovey và Mayer (1990), và Goleman (1995).

[sửa]Định nghĩa

Có rất nhiều tranh luận về định nghĩa của TTXC khi xem xét thuật ngữ và cả các hoạt động. Tiên phong là Salovey và Mayer (1990) đã định nghĩa TTXC là "khả năng giám sát cảm giác và xúc cảm của một người nào đó và những người khác, phân biệt giữa họ và sử dụng thông tin này để dẫn dắt suy nghĩ và hành động của người đó". [7]

Mặc dù với định nghĩa sớm này, vẫn có sự nhầm lẫn khi xem xét nghĩa chính xác của cách xây dựng này. Các định nghĩa thường quá biến hóa, và các lĩnh vực cũng lớn mạnh rất nhanh, các nhà nghiên cứu thường xuyên thay đổi các định nghĩa.[8] Hiện tại, có ba mô hình TTXC chính:

  • Các mô hình về khả năng TTXC
  • Các mô hình hỗn hợp về TTXC
  • Mô hình đặc thù TTXC

[sửa]Các mô hình

[sửa]Mô hình về khả năng Trí tuệ xúc cảm

Nhận thức của Salovey và Mayer về TTXC đạt được khi định nghĩa TTXC bên trong những phạm vi của những tiêu chí cho một loại Trí tuệ mới. Theo những nghiên cứu liên tục của họ, định nghĩa ban đầu về TTXC được sủa đổi thành: "Khả năng tiếp nhận cảm xúc, tích hợp cảm xúc để làm thuận tiện việc suy nghĩ, hiểu và đièu chỉnh các cảm xúc cho việc xúc tiến sự phát triển cá nhân".

Quan điểm của mô hình khả năng TTXC như các nguồn thông tin hữu dụng mà có giúp ai đó có ý nghĩa và thông qua môi trường xã hội.[9] Mô hình đề xuất các cá thể có thể thay đổi trong khả năng của họ để xử lý thông tin của một xúc cảm tự nhiên và trong khả năng của họ liên quan đến việc xử lý cảm xúc để cung cấp một nhận thức sâu rộng hơn. Khả năng này được nhìn nhận như tự biểu hiện trong một vài hành vi thích hợp. Mô hình đề xuất TTXC bao gồm 4 loại khả năng:

  1. Tiếp nhận cảm xúc - khả năng phát hiện giải mã các cảm xúc trên gương mặt, tranh ảnh, giọng nói và các giả tạo văn hóa (cultural artifact). Tiếp nhận cảm xúc đại diện cho một khía cạnh của TTXC, như là nó làm cho tất cả các xử lý thông tin cảm xúc khác trở thành có thể.
  2. Sử dụng cảm xúc - khả năng khai thác các cảm xúc để thuận tiện cho nhiều hành vi nhận thức, như là nghĩ và giải quyết vấn đề. Trí tuệ cảm xúc cá nhân có thể tích lũy đầy đủ ngay lúc người ta thay đổi tâm trạng để phù hợp trực tiếp nhất với công việc.
  3. Hiểu cảm xúc - khả năng thấu hiểu các ngôn ngữ cảm xúc, hiểu rõ các mối quan hệ phức tạp giữa các cảm xúc. Ví dụ như hiểu cảm xúc hoàn thiện khả năng nhạy bén trước các thay đổi rất nhỏ giữa các cảm xúc, và khả năng nhận biết và mô tả các cảm xúc tiến hóa theo thời gian.
  4. Quản lý cảm xúc - khả năng điều chỉnh cảm xúc của bản thân và của người khác. Vì vậy, TTXC cá nhân có khai thác các cảm xúc, thậm chí cả những cảm xúc tiêu cực, và quản lý chúng để đạt được mục tiêu đã định.

Mô hình này bị chỉ trích trong nghiên cứu là thiếu hiệu lực trực diện và tiên đoán.[10]

[sửa]Các mô hình hỗn hợp của TTXC

[sửa]Mô hình Cảm xúc Năng lực (Goleman)

Mô hình giới thiệu bởi Daniel Goleman [11] tập trung về TTXC như là mảng sâu rộng các năng lực và kỹ năng điều khiển hiệu suất lãnh đạo. Mô hình của Goleman phác thảo 4 cách xây dựng TTXC chính:

  1. Tự nhận thức — khả năng đọc các cảm xúc và nhận ra ảnh hưởng của họ khi sử dụng cảm nhận Gut để hướng đến các quyết định.
  2. Tự quản lý — bao gồm điều khiển các cảm xúc, kích thích và thích nghi để thay đổi hoàn cảnh.
  3. Nhận thức xã hội — khả năng cảm nhận, hiểu và phản ứng với các cảm xúc của người khác khi nhận thức mạng xã hội.
  4. Quản lý mối quan hệ — khả năng truyền cảm hứng, gây ảnh hưởng và phát triển các kỹ năng khác khi quản lý xung đột.

Goleman bao hàm một tập các năng lực cảm xúc bên trong mỗi cách xây dụng TTXC. Các năng lực cảm xúc không phải là các tài năng bẩm sinh, mà là các khả năng học được, phải được đào tạo liên tục, phát triển và đạt đến hiệu năng nổi trội. Goleman thừa nhận rằng các cá thể được sinh ra với các TTXC chung có khả năng xác định được các khả nãng tiềm tàng cho việc học hỏi các kỹ năng xúc cảm.[12] Mô hình của Goleman bị chỉ trích chỉ là tâm lý bình dân. (Mayer, Roberts, & Barsade, 2008).

[sửa]Mô hình TTXC tính cách

Petrides và đồng nghiệp. (2000a, 2004, 2007) đã đề nghị phân chia khái niệm giữa mô hình khả năng và mô hình dựa trên tính cách của TTXC.[13] TTXC tính cách là "một chùm sao của các tri giác bản thân liên đới xúc cảm, định vị tại tầng thấp hơn của tính cách". Trong phạm vi hẹp, TTXC đặc điểm chỉ đến tri giác bản thân của một cá thể về các khả năng cảm xúc của họ. Định nghĩa này về TTXC bao gồm các cách sắp đặt hành vi và khả năng tự cảm nhận và được đo bởi báo cáo bản thân (self report), đối lập với mô hình dựa khả năng, đã được chứng minh là đề kháng cao với các phương pháp đo khoa học. TTXC đặc điểm cần được nghiên cứu bên trong khung cảnh của tính cách.[14] Một danh hiệu thay thế cho cùng cách xây dựng là hiệu quả bản thân về xúc cảm tính cách.

Mô hình tính cách TTXC là khái quát và là sự lắp ghép của mô hình Goleman và các mô hình ngoại lệ (Bar-On).

Khái niệm hóa về TTXC như là các tính cách cá nhân dẫn đến việc xây dựng những khả năng phép phân loại ngoài nhận thức của con người. Đây là cách phân biệt quan trọng như hướng thẳng đến các thao tác hóa của việc xây dựng lý thuyết và giả thuyết đã được phát biểu.

[sửa]Phê bình

[sửa]TTXC định nghĩa quá rộng và các định nghĩa của nó không ổn định

Một trong những lập luận chống lại tính đúng đắn lý thuyết của khái niệm gợi ý rằng thay đổi liên tục và mở rộng những định nghĩa - sẽ bao hàm vô số các yếu tố không liên quan - đã nêu ra một khái niệm khó hiểu.

"Cái gi là yếu tố chung hoặc tích hợp trong khái niệm được bao hàm: nội quan về cảm xúc, diễn đạt biểu cảm, giao tiếp không mô thức với những cái khác, sự thấu cảm, tự điều chỉnh, tính quy hoạch, suy nghĩ sáng tạo và hướng chú ý? Không có gi cả"."[15]

Những chỉ trích khác của Landy [16] đề cập rằng không có ổn định nào về các khái niệm và các phương pháp đo, siêu phân tích rất khó để thực hiện và lý thuyết nhất quán thì gần như bất lợi vi ảnh hưởng của sự thiếu ổn định.

[sửa]TTXC không được thừa nhận là một loại trí thông minh

Các phác thảo sớm của Goleman đã bị chỉ trích là thừa nhận rằng TTXC là một kiểu trí thông minh. Eysenck viết rằng mô tả của Goleman về TTXC hàm chứa các giả định về trí thông minh nói chung và rằng nó thậm chí vẫn đối nghịch với cái mà các nhà nghiên cứu phải kỳ vọng khi nghiên cứu các dạng thông minh:

"Goleman ví dụ hóa rõ ràng hơn tất cả các điều ngớ ngẩn căn bản khác về xu hướng phân loại hầu hết bất kỳ hành vi nào đều như một kiểu 'thông minh'... Nếu năm khả năng định nghĩa 'TTXC', chúng ta có thể kỳ vọng vài điều hiển nhiên rằng chúng đã quá tương quan; Goleman thừa nhận rằng chúng có thể không liên qua, và trong mọi trường hợp rằng nếu chúng ta không thể cân đo đong đếm, làm thế nào chúng ta biết được rằng chúng có liên quan? Vì vậy toàn bộ lý thuyết được xây dựng trên một nền móng không vững chắc: không có sự đúng đắn của khoa học căn bản".

Tương tự, Locke (2005) [15] nêu lên rằng khái niệm của TTXC ngay trong bản thân nó là một giải thích sai lầm về xây dựng trí thông minh và anh ta đề nghị một cách diễn đạt khác: nó không phải là một kiêu hay dạng khác của trí thông minh, nhung trí thông minh--khả năng nắm đượctrừu tượng hóa--ứng dụng như một lãnh vực đặc thù của đời sống: các cảm xúc. Ông gợi ý rằng khái niệm có thể được đặt tên lại và tham chiếu như là một kỹ năng.

[sửa]TTXC không có giá trị tiên đoán thực tế

Landy (2005)[16] đã xác nhận rằng chỉ có vài nghiên cứu tích lũy hợp lý về TTXC đã chứng minh rằng nó chỉ thêm vào rất ít hay không có giải thích hoặc tiên đoán về các kết quả chung (hâu hết các thành công hàn lâm nổi tiếng). Landy đề xuất rằng lý do mà các nghiên cứu đã tìm thấy một lượng tăng nhỏ trong hiệu lực tiên đoán là trong thực tế, một phương pháp luận ngụy biện -các xem xét không đầy đủ về các giải thích thay thế:

"TTXC được so sánh và tương phản với một phép đo của trừu tượng hóa trí tuệ với một phép đo tính cách hoặc với một phép đo tính cách nhưng không có trí tuệ hàn lâm" Landy (2005)

Để đồng ý với gợi ý này, những nhà nghiên cứu khác đã nêu lên các liên qua về mở rộng tới cái gọi là các phép đo TTXC tự nhận thức, tương quan với thứ nguyên tính cách. Nói chung, các phép đo TTXC tự nhận thức là hội tụ bởi vì chúng đều có nội dung là đo tính cách và bởi vì chúng đều được đo trong các hình thức tự nhận thức.[17] Đặc biệt, xuất hiện hai đại lượng trong năm nhân cách chính nổi bật hẳn lên như là tự báo cáo bản thân một cách liên quan nhất như tâm thần hoặc hướng ngoại. Đặc biệt, thuyết thân kinh liên quan đến các cảm xúc tiêu cực như là lo lắng. Bằng trực giác, mỗi cá thể ghi lại điểm cao nhất trên thân kinh như là ghi điểm thấp nhất trên phương pháp tự đo TTXC.

Các cách hiểu sự tương quan giữa các TTXC tự báo và các tính cách biên đổi và không nhất quán. Nhiều nhà nghiên cứu đã xác nhận rằng các tương quan trong khoang .40 tạo nên hoàn toàn nhưng dư thừa,[18] trong khi những người khác gợi ý răng TTXC tự báo là một tính cách ngay trong bản thân nó.[13]

[sửa]Ghi chú và tham khảo

  1. ^ Bradberry, Travis and Greaves, Jean. (2005). The Emotional Intelligence Quick Book. New York: Simon and Schuster. (ISBN: 0743273265)
  2. ^ Bar-On, R. (2006). The Bar-On model of emotional-social intelligence (ESI). Psicothema, 18 , supl., 13-25.
  3. ^ Thorndike, R.K. (1920). "Intelligence and Its Uses", Harper's Magazine 140, 227-335.
  4. ^ Gardner, H. (1983). Frames of mind. New York: Basic Books.
  5. ^ Smith, M. K. (2002) "Howard Gardner and multiple intelligences", the encyclopedia of informal education, Downloaded fromhttp://www.infed.org/thinkers/gardner.htm on October 31, 2005.
  6. ^ Payne, W.L. (1983/1986). A study of emotion: developing emotional intelligence; self integration; relating to fear, pain and desire. Dissertation Abstracts International, 47, p. 203A. (University microfilms No. AAC 8605928)
  7. ^ Salovey, P. & Mayer, J.D. (1990) "Emotional intelligence" Imagination, Cognition, and Personality, 9, 185-211
  8. ^ Dulewicz V & Higgs M. (2000). Emotional intelligence – A review and evaluation study. Journal of Managerial Psychology 15 (4), 341 – 372
  9. ^ Salovey P and Grewal D (2005) The Science of Emotional Intelligence. Current directions in psychological science, Volume14 -6
  10. ^ Bradberry, T. and Su, L. (2006). Ability-versus skill-based assessment of emotional intelligence, Psicothema, Vol. 18, supl., pp. 59-66. [http://www.psicothema.com/pdf/3277.pdf
  11. ^ Goleman, D. (1998). Working with emotional intelligence. New York: Bantam Books
  12. ^ Boyatzis, R., Goleman, D., & Rhee, K. (2000). Clustering competence in emotional intelligence: insights from the emotional competence inventory (ECI). In R. Bar-On & J.D.A. Parker (eds.): Handbook of emotional intelligence (pp. 343-362). San Francisco: Jossey-Bass.
  13. a b Petrides, K. V. & Furnham, A. (2000a). On the dimensional structure of emotional intelligence. Personality and Individual Differences, 29, 313-320
  14. ^ Petrides, K. V. & Furnham, A. (2001). Trait emotional intelligence: Psychometric investigation with reference to established trait taxonomies. European Journal of Personality, 15, 425-448
  15. a b Locke, E.A. (2005). Why emotional intelligence is an invalid concept. Journal of Organizational Behavior, 26, 425-431.
  16. a b Landy, F.J. (2005). Some historical and scientific issues related to research on emotional intelligence. Journal of Organizational Behavior, 26, 411-424.
  17. ^ MacCann, C., Roberts, R.D., Matthews, G., & Zeidner, M. (2004). Consensus scoring and empirical option weighting of performance-based emotional intelligence tests. Personality & Individual Differences, 36, 645-662.
  18. ^ Davies, M., Stankov, L., & Roberts, R. D. (1998). Emotional intelligence: In search of an elusive construct. Journal of Personality and Social Psychology, 75, 989-1015.

 

nguồn Wikipedia

 

[1]Hiện nay chưa tồn tại phương pháp nào được công nhận là xác định được EQ, vì thế cụm từ "chỉ số EQ" có thể là một nghi vấn và chúng ta không thể xác định được chỉ số này là bao nhiêu ở mỗi người .

Các chỉ số suy đoán như SQ (thông minh Xã Hội) cũng là một nghi vấn, vì hiện chưa tồn tại cách xác định "chỉ số" này.  

Trung bình mỗi gia đình ở Việt Nam có 44 triệu VNĐ

 Sẽ không tồn tại một con số chính xác 100% nào.

 Tuy nhiên ở đây chúng tôi cố gắng đưa ra một vài con số dựa trên 1 công thức:

 

 Kết quả cho thấy: (Tất cả các con số đều được làm tròn)  Tính đến tháng 9 năm 2009 ở Việt Nam:

 

 Có một nửa số gia đình[1] có nhiều hơn và một nửa gia đình có ít hơn 44 triệu đồng (bao gồm tiền và các tài sản tương đương tiền (vàng, bạc, đá quý, chứng khoán,... )).

 Cứ 6 gia đình thì có 1 gia đình có từ 200 triệu trở lên.

 Cứ 132 gia đình thì có 1 gia đình có từ 1 tỷ trở lên.

 Cứ 3100 gia đình thì có 1 gia đình có từ 5 tỷ trở lên.

 Cứ 9400 gia đình thì có 1 gia đình có từ 10 tỷ trở lên.

 

Việt Nam có khoảng 26 triệu hộ gia đình (số liệu của Tổng cục thống kê), như vậy, Việt Nam có 200 nghìn gia đình tỷ phú[2], tương ứng có khoảng 660 nghìn người là thành viên của 1 gia đình tỷ phú.

 

Những con số trên có ý nghĩa trong việc xác định vị trí của mỗi gia đình trong tổng thể Xã Hội.

 

Một con số khác cũng đáng lưu tâm đó là trung bình một người và gia đình của mình mất khoảng từ 17 đến 19 năm để trở thành tỷ phú. Không tính các chi phí như tiền ăn, ở, mua sắm đồ đạc, trang thiết bị, phương tiện giao thông,... bỏ ra để duy trì cuộc sống trong suốt thời gian nói trên, chỉ tính tài sản bằng tiền hoặc có thể rất dễ đổi ra tiền như vàng, bac, đá quý, chứng khoán, ... 

 

[1]Gia đình: Nếu xem xét tỉ mỉ hơn 1 bậc, có thể thấy tồn tại sự bất bình đẳng giữa 1 gia đình mới thành lập và 1 gia đình đã thành lập lâu hơn. Khoảng cách có thể là rất đáng kể giữa 1 gia đình tồn tại dưới 5 năm và một gia đình đã tồn tại trên 20 năm. Trong trường hợp này thì khái niệm tiền tích lũy được hàng năm thường có tính chính xác cao hơn trong việc so sánh.

Ví dụ: một gia đình tiết kiệm được trung bình 40 triệu/1 năm và đã thành lập được 4 năm tuy có tổng số tiền hiện tại ít hơn 1 gia đình đã tồn tại 10 năm nhưng mỗi năm chỉ tích lũy được 20 triệu. Khả năng về tốc độ tích lũy và khả năng về tương lai của gia đình trẻ hơn rõ ràng là tươi sáng hơn rõ rệt so với gia đình già hơn.

[2]Tỷ phú: là khái niệm chỉ những người có từ 1 tỷ đồng trở lên và được Xã hội Việt Nam hiện tại công nhận rộng rãi để chỉ một người giàu có.

     Tuy nhiên điều này có thể là không đúng hẳn nếu xem xét ở mức độ tỉ mỉ hơn 1 bậc. Vì, có thể những người tạm gọi là giàu có này chưa có nhà mà vẫn phải đi thuê, có thể những số tiền này cần thiết phải được dùng để mua nhà cho con cái trưởng thành đã đến tuổi lập gia đình... và tất cả đều chưa tính đến những rủi ro về kinh doanh, những khoản nợ, những sự vi phạm luật pháp như tham nhũng, buôn lậu,... tồn tại khá nhiều trong Xã hội Việt Nam.

 

Syndicate content








mensa iq test | mensa test